Hồ Mạnh Tùng (3 năm kinh nghiệm nghiên cứu) đã có tổng cộng 9 bài đăng trên tạp chí quốc tế thuộc danh mục ISI/Scopus (2 bài tác giả thứ nhất); trong đó có những Tạp chí rất uy tín như Sustainability – IF 2.0, Studies in Higher Education – IF 2.3 hay Palgrave Communication, tạp chí KHXH&NV duy nhất thuộc danh mục xuất bản của Nature Research danh tiếng.
Hồ Mạnh Toàn, mặc dù mới chỉ tham gia nghiên cứu từ tháng 10/2017 đến nay, cũng đã kịp “bỏ túi” 01 bài (đồng tác giả với anh trai Hồ Mạnh Tùng và một số đồng nghiệp khác) trên tạp chí Societies (thuộc danh mục ESCI).
Chàng trai trẻ và sự dấn thân vào nghiên cứu về khoa học xã hội
Tùng chia sẻ bước ngoặt lớn nhất trong
sự nghiệp khoa học non trẻ của mình là việc được tham gia vào nhóm
nghiên cứu về KHXH liên ngành dưới sự hướng dẫn của TS. Vương Quân Hoàng
(ĐH Tổng hợp Bruxelles và ĐH Thành Tây) từ tháng 2/2017.
“Quá trình học nghề nghiên cứu (với TS.
Vương Quân Hoàng) không dễ dàng, nhưng tôi luôn thấy may mắn vì được
huấn luyện và thử thách từ những kĩ năng nhỏ nhất: thu thập và làm sạch
dữ liệu, viết bản thảo, sửa bản thảo, diễn giải kết quả thống kê…. Tôi
luôn thấy hào hứng vì được “cọ sát và thi đấu ở môi trường quốc tế”; từ
việc phải viết và điều chỉnh bản thảo sao cho phù hợp với quy phạm của
tạp chí, cho tới viết thư cho ban biên tạp sao cho dành được sự chú ý
của họ, cho tới việc trả lời các phản biện sao cho đầy đủ và thuyết
phục, tất cả đã dạy cho tôi rất nhiều bài học.”
Còn với Hồ Mạnh Toàn, người tự nhận vốn
chịu ảnh hưởng từ anh trai ngay từ nhỏ, thì việc tiếp bước anh tham gia
vào nghiên cứu cũng là một việc rất tự nhiên.
“Khi mình học cấp 3 cũng là lúc anh trai
mình bắt đầu đọc và theo dõi một số chuyển động của thế giới học thuật,
đặc biệt là triết học thì mình cũng bị ảnh hưởng theo” – Toàn chia sẻ.
Mặc dù vậy, ở thời điểm hiện nay, Toàn
cũng đã bước đầu định hình được hướng nghiên cứu riêng của mình. Bên
cạnh các dự án chung với nhóm nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của TS. Vương
Quân Hoàng, Toàn mới hoàn thành xong một bản thảo về thị trường tranh
giả ở Việt Nam với vai trò là tác giả thứ nhất, là một chủ đề hầu như
chưa tác giả người Việt nào nghiên cứu trước đây.
“Mình nhắm nộp bài báo đó tại một tạp
chí uy tín về lĩnh vực nghệ thuật và nhân văn, Tại Việt Nam, phần lớn
các công bố quốc tế mạnh đều thuộc về lĩnh vực khoa học tự nhiên hoặc xã
hội chứ lĩnh vực nhân văn hoặc nghệ thuật chưa có nhiều”- Toàn giải
thích.
Đánh giá về Tùng và Toàn, TS. Phạm Hiệp,
người tham gia đồng nghiên cứu và cùng với TS. Vương Quân Hoàng hướng
dẫn 2 bạn từ những bước đầu, nhận xét: “Điểm chung 2 bạn đã có sự chuẩn
bị chu đáo từ phông kiến thức, khả năng ngoại ngữ cho đến thái độ làm
việc trước khi tham gia vào nhóm nghiên cứu của chúng tôi. Điều này
khiến cho các bạn hòa nhập với công việc nghiên cứu đỉnh cao khá nhanh
và chắc chắn”.
Mặc dù vậy, cũng theo TS. Hiệp, Tùng và Toàn mỗi người lại có một thế mạnh khác nhau và bổ trợ tốt cho nhau.
“Tùng “kiên trì” và “chắc chắn” trong
từng bước một của quá trình nghiên cứu, còn Toàn thì nắm vấn đề và thích
ứng rất nhanh với yêu cầu mới” – TS. Hiệp chia sẻ.
Những “trái ngọt” ở trên các tạp chí quốc tế nổi tiếng
Trong các công trình mới công bố của
Tùng, Toàn và nhóm nghiên cứu là nghiên cứu thuộc lĩnh vực y xã hội với
tiêu đề: Healthcare consumers’ sensitivity to costs: a reflection on
behavioural economics from an emerging market (tạm dịch - Sự nhạy cảm
của người tiêu dùng dịch vụ sức khỏe đối với chi phí: góc nhìn kinh tế
học hành vi tại một thị trường mới nổi) được đăng trên Tạp chí Palgrave
Communication, tạp chí khoa học xã hội – nhân văn duy nhất trong danh
mục xuất bản của Nature Research danh giá. (https://www.nature.com/articles/s41599-018-0127-3 DOI: 10.1057/s41599-018-0127-3).
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã
phát hiện ra rằng, tại Việt Nam, những người thuộc nhóm không có bảo
hiểm, đã kết hôn và có công việc ổn định thường có xu hướng sẵn sàng chi
trả nhiều hơn cho dịch vụ khám sức khỏe tổng quan. Điều này được giải
thích từ góc độ rủi ro trong kinh tế: những người kể trên sẽ có tâm lý
sợ rủi ro (vì không có bảo hiểm, vì sợ ảnh hưởng đến gia đình, sợ ảnh
hưởng đến công việc) nên sẽ sẵn sàng chi trả hơn so với nhóm người còn
lại. Nghiên cứu kể trên cũng đã đóng góp bằng chứng cho nhận định của
một số nhóm nghiên cứu khác trên thế giới về sự cần thiết của hoạt động
khám sức khỏe tổng quan.
Một công trình nổi bật khác của nhóm
nghiên cứu của Tùng, Toàn và các cộng sự là nghiên cứu: Effects of work
environment and collaboration on research productivity in Vietnamese
social sciences: evidence from 2008 to 2017 Scopus data (tạm dịch – Tác
động của môi trường làm việc và mô hình hợp tác đến năng suất nghiên cứu
trong khoa học xã hội Việt Nam: minh chứng từ dữ liệu Scopus giai đoạn
2008 đến 2017) được đăng trên Tạp chí Studies in Higher Education, tạp
chí hàng đầu thế giới về giáo dục đại học, thuộc danh mục SSCI và có chỉ
số tác động 2.3 (https://srhe.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/03075079.2018.1479845#.W0jBU2Qzbx5 DOI: doi.org/10.1080/03075079.2018.1479845)
Nghiên cứu này phân tích thực trạng của
ngành khoa học xã hội ở Việt Nam trong việc hội nhập quốc tế. Cụ thể
trong giai đoạn 2008-2017, trong số mẫu 492 nhà khoa học được khảo sát
chỉ có 86 người (chiếm tỷ lệ 17%) có ít nhất 01 công trình công bố trở
lên trong vòng 2 năm (tương đương 5 công trình trở lên/10 năm). Số 79%
còn lại đều có năng suất nghiên cứu rất thấp: dưới 5 bài/10 năm. Kết quả
nghiên cứu cũng cho thấy nhà khoa học tại các trường đại học có xu
hướng công bố tốt hơn so với nhà khoa học làm việc tại viện nghiên cứu.
Cụ thể, ở nhóm có năng suất nghiên cứu
cao, trung bình một giảng viên đại học công bố 11,09 bài/10 năm từ
2008-2017; trong khi cùng giai đoạn này, một nghiên cứu viên tại viện
nghiên cứu công bố được trung bình 10,69 bài. Con số tương ứng với nhóm
có năng suất nghiên cứu thấp là 3,64 so với 3,62. Điều này dường như
trái với nhận định phổ biến cho rằng các nhà khoa học làm việc tại các
viện nghiên cứu tập trung nhiều thời gian hơn cho nghiên cứu khoa học
nên có kết quả nghiên cứu tốt hơn.
Bên cạnh khoa học, thể thao cũng là một
trong những đam mê khác của Tùng và Toàn. Tùng trước đây đã suýt đi theo
con đường VĐV chuyên nghiệp với 3 HCB Giải vô địch Pencak- Silat Toàn
quốc năm 2007, và 2HCB, 1HCĐ Giải Wushu tại Hội khỏe Phù Đổng Toàn quốc
năm 2008. Còn Toàn từng có cơ hội tham gia giải bóng đá học sinh thành
phố Hà Nội trong thời gian học cấp 3. Khi còn học tại Nhật, Toàn đã từng
làm BTC World Cup dành cho sinh viên quốc tế tại trường.
Hồ Mạnh Tùng suýt trở thành 1 VĐV Pencak-Silat cách đây 10 năm. |
Trong thời gian tới, bên cạnh việc tiếp
tục tham gia nghiên cứu trong nhóm của TS. Vương Quân Hoàng và TS. Phạm
Hiệp, một trong những mục tiêu quan trọng của cả Tùng và Toàn là theo
học chương trình nghiên cứu sinh và lấy bằng ThS, TS. Bản thân Tùng đang
là học viên cao học năm 1 tại Nhật Bản. Toàn cũng đang tìm kiếm học
bổng để có thể sớm xuất ngoại.
Khi được hỏi: Lliệu có tiếc nếu Tùng và
Toàn đi nước ngoài rồi sẽ không trở về làm việc với mình nữa không?”,
TS. Vương Quân Hoàng cho biết “Hội nhập quốc tế về NCKH là việc cần làm
với KHXH Việt Nam hiện nay.Chúng tôi sẽ đồng hành cùng các em hết sức có
thể. Nhưng nếu “sân khấu” của chúng tôi quá nhỏ thì cũng phải để các em
chuyển đến các “sân khấu” khác lớn hơn”.
Hồ Mạnh Tùng sinh năm 1990, là nghiên cứu viên tại Viện Triết học,
Viện Hàn lâm KHXH&VN và là cộng tác viên tại Trung tâm Nghiên cứu Xã
hội Liên ngành, Trường ĐH Thành Tây. Hiện Toàn đang học sau đại học về
quản trị học tại ĐH Ritsumeikan Asia Pacific, Nhật Bản, chuyên ngành
quản trị.
Hồ Mạnh Toàn sinh năm 1995, tốt nghiệp cử nhân tại ĐH Ritsumeikan Asia Pacific, Nhật Bản. Hiện Toàn đang là nghiên cứu viên tại Trung tâm Nghiên cứu Xã hội Liên ngành, Trường ĐH Thành Tây.
Hồ Mạnh Toàn sinh năm 1995, tốt nghiệp cử nhân tại ĐH Ritsumeikan Asia Pacific, Nhật Bản. Hiện Toàn đang là nghiên cứu viên tại Trung tâm Nghiên cứu Xã hội Liên ngành, Trường ĐH Thành Tây.
H.Nguyễn
Dân Trí. Niềm đam mê nghiên cứu khoa học của “hai anh em nhà họ Hồ”.
No comments:
Post a Comment